Home » » Điển tích văn học

Điển tích văn học

Nằm gai, nếm mật

 
"Nằm gai nếm mật" do chữ "Ngọa tân thường đảm".

Đời Xuân Thu (722-479 trước D.L.), hai nước Ngô và Việt đánh nhau. Sau trận đại bại tại Cối Kê, vua Việt là Câu Tiễn phải mình trần sang lạy vua Ngô là Phù Sai xin hàng. Ngô vương bắt vợ chồng Câu Tiễn phải sang Ngô làm con tin, có quan Tướng Quốc là Phạm Lãi theo hầu. Cả ba đều bị giam trong ngục đá.

Hằng ngày vợ chồng Câu Tiễn và Phạm Lãi phải cắt cỏ, hốt phân ngựa, gánh nước rửa dọn chuồng ngựa, kiếm củi nấu cơm... Suốt thời gian ba năm, chúa tôi sống một cách vô cùng vất vả cực nhọc, những vẫn bền chí đợi thời.

Một hôm vua Ngô đau, Câu Tiễn nghe theo lời của Phạm Lãi là chịu nếm phẩn của vua Ngô để được vua Ngô tin kẻ hàng giữ dạ trung thành. Nhờ đó mà cả ba được phóng thích về nước.

Được trở về cố quốc, nhớ đến nỗi thất bại nhục nhã và bị giam cầm làm nô lệ, Câu Tiễn vô cùng căm uất, lòng canh cánh mưu toan báo thù. Tướng quốc Phạm Lãi nói:

- Chúa công chớ lúc nào quên cái nhục ở ngục đá thì mới có cơ báo thù được nước Ngô.

Câu Tiễn đáp:

- Xin vâng lời dạy bảo!

Bấy giờ giao quốc chính cho Văn Chủng, giao quân chính cho Phạm Lãi, nhà vua tôn hiền đãi sĩ, kính người già, thương kẻ nghèo, đối xử trăm họ như anh em nên được mọi người mến phục.

Đến mùa làm ruộng, Câu Tiễn cũng vác cày đi càỵ Vương phi Câu Tiễn cũng chăm việc dệt cửi. Cùng đám dân chia sự lao khổ, ăn mặc rất tiết kiệm.

Muốn gấp báo thù, Câu Tiễn cố sức chăm chỉ làm việc suốt ngày đêm. Khi nào buồn ngủ thì lấy cỏ lục (rau răm) xoa vào mắt cho cay làm mắt phải mở. Chân lạnh muốn co thì dầm nước lạnh. Mùa đông lạnh thì ôm giá. Mùa hè nóng nực thì ngồi bên lửa. Bỏ cả giường nệm, lấy gai lấy củi lót nằm. Quả mật luôn luôn treo ở chỗ ngồi, chỗ nằm, thỉnh thoảng lại nếm một ít như để nhắc lại nỗi tủi nhục, khổ đau. Đêm nào cũng sùi sụt khóc. Khóc chán lại thở dài. Hai chữ "Cối Kê" lúc nào cũng lẩm nhẩm ở miệng.

Theo 7 kế phá Ngô của Văn Chủng, mới thi hành được 3 thì nước Việt hưng thịnh, nước Ngô suy. Cuối cùng nước Việt báo được thù, thôn tính nước Ngô, và vua Ngô tự tử.

Trong bài "Văn tế trận vong tướng sĩ" của Nguyễn Văn Thành đời vua Gia Long, có câu: "Nằm gai nếm mật chung nỗi ân ưu; mở suối bắc cầu riêng phần lao khổ".

"Nằm gai nếm mật" có nghĩa chịu những việc lao khổ để trả thù cho kỳ được là do điển tích trên.

Thanh Minh trong tiết tháng ba
 Thanh Minh là tên một thời tiết, tức là một khoảng thời gian phân định sẵn trong lịch Tàu.

Lịch cổ nước Tàu chia một năm ra làm 8 tiết, gọi là "Bát tiết": lập Xuân, lập Hạ, lập Thu, lập Đông, Xuân phân, Thu phân, Hạ chí và Đông chí.

Lịch Kim (tức là lịch đời Hán trở lại) của Tàu thì chia năm ra làm 24 Khí hoặc Tiết. Cứ ba ngày là một Hậu; 5 Hậu là một Khí hoặc Tiết. Một năm có 24 Khí hoặc Tiết. Mỗi tháng chia làm 2 Khí. Khí nhằm vào những ngày đầu tháng thì gọi là Tiết Khí. Khí nhằm vào giữa tháng thì gọi là Trung Khí. Tiết Khí và Trung Khí thường gọi tắt là Tiết và Trung.

Đầu thời Hán lấy tiết Kinh trập làm "Chính nguyệt trung" (tức là khí vào giữa tháng giêng), lấy Vũ thủy làm "nhị nguyệt tiết" (tức là khí vào đầu tháng hai). Cuối đời Hán, Lưu Hầm làm Tam thống đổi Kinh trập làm "Nhị nguyệt tiết" (khí vào đầu tháng hai), Vũ thủy làm "Chính nguyệt trung" (khí vào giữa tháng giêng), Cốc vũ là "Tam nguyệt tiết" (khí đầu tháng ba); Thanh minh làm "Tam nguyệt trung" (khí giữa tháng ba).

Lịch Tàu ngày nay tức là sau đời nhà Hán thì chia Thanh minh làm Tam nguyệt tiết (khí vào đầu tháng ba).

Hai mươi bốn tiết khí trong một năm là:

Mùa xuân: Lập Xuân, Vũ thủy, Kinh trập, Xuân phân, Thanh minh, Cốc vũ.

Mùa hạ: Lập Hạ, Tiểu mãn, Mang chủng, Hạ chí, Tiểu thử, Đại thử.

Mùa thu: Lập Thu, Xử thử, Bạch lộ, Thu phân, Hàn lộ, Sương giáng.

Mùa đông: Lập Đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết, Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn.

Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn tả cảnh Thanh minh có câu:

Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

"Thanh minh trong tiết tháng ba" là do câu "Thanh minh tam nguyệt tiết" nghĩa là: Tiết thanh minh đầu tháng ba.

Theo cách dùng thuật ngữ của Tàu thì chỉ nói "Tiết tháng ba" hay "Tam nguyệt tiết" tức "Tam nguyệt khí tiết" là người ta hiểu ngay là nói đầu tháng ba. Vì tiết đây là tiết khí nói tắt, mà tiết khí nghĩa là thời tiết nhằm đầu tháng. Vậy thì "trong tiết tháng ba" có nghĩa là "vào đầu tháng ba".

Tục Tàu, nhân tiết Thanh minh, người ta tổ chức lễ thăm mộ gọi là "Lễ tảo mộ", tức là lễ quét tước sửa sang mồ mả. Và, nhân lễ tảo mộ ngoài đồng, mà tự nhiên có hội gọi là "hội đạp thanh" tức là hội giẵm trên đám cỏ xanh ở ngoài đồng.

Cổ thi của Tàu có bài:

Xuân du thanh thảo địa,

Hạ thưởng lục hà trì.

Thu ẩm huỳnh hoa tửu,

Đông ngâm bạch tuyết thi.

LÁ THẮM CHỈ HỒNG



Thành ngữ "lá thắm chỉ hồng " biểu thị cái duyên số tiền định của vợ chồng,là lời nói hộ tình yêu cho những lứa đôi.Thành ngữ này được hình thành từ sự giao kết giữa hai câu chuyện tình thuở xưa.

Lá thắm: Do chữ Hồng diệp. Vu Hựu, đời Đường, một hôm đi chơi, bắt được chiếc lá đỏ trôi trên ngòi nước từ cung vua chảy ra. Trên lá có đề một bài thơ, Vu Hựu bèn để lại hai câu thơ vào chiếc lá đỏ khác, rồi đem thả nơi đầu ngòi nước, cho trôi vào cung vua. Hàn thị, người cung nữ thả lá đỏ khi trước, lại bắt được lá đỏ của Vu Hựu. Về sau, nhờ dịp vua phóng thích cung nữ, Vu Hựu lấy được Hàn thị.Về sau,Vu Hựu thấy chiếc lá có bài thơ của mình trong hộp đồ trang sức của vợ.Ngay lập tức,chàng lấy chiếc lá thắm có bài thơ của người cung nữ đưa cho Hàn Thị xem.Hai vợ chồng hết sức ngạc nhiên trước sự ngẫu nhiên hiếm có này.Anh trai họ của Hàn Thị tổ chức tiệc rượu,ép Hàn Thị làm thơ tả lá thắm.Bài thơ được ứng tác rất nhanh:

Câu thơ tuyệt diêu theo dòng nước
Ôm hận mười năm ngỏ với ai.
Nay được vui vầy loan cánh phượng
Khen thay lá thắm mối manh tài.


Trong truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có câu:

Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.


Chỉ hồng: Do chữ xích thằng (sợi dây đỏ) theo sách Tục U quái lục: Vì Cố, người đời Đường, đi cầu hôn, vào nghỉ quán trọn, gặp một ông già ngồi dưới bóng trăng, mở cái túi vải, đang kiểm sổ sách. Vi Cố hỏi, ông già trả lời: Đây là sổ sách hôn nhân, và chiếc túi vải này dùng đựng những dây đỏ (xích thằng) dùng để buộc chân đôi vợ chồng.Cụ già phán với chàng rằng số chàng phải lấy một cô bé lúc này mới lên ba thường theo mẹ bán rau ở chợ.Sợi chỉ ấy đã buộc chân chàng với cô bé kia.Dù ghét bỏ ,xa cách nhau đên mấy cũng phải lấy nhau.

Về nhà ,chàng thuê người đi giết cô bé nhưng sự chẳng thành.

Về sau chàng lấy vợ,là con một ông quan trong triêu.Lấy vợ được mười năm,chàng mới nhận ra vợ mình là cô bé bán rau ngày xưâ và nay đã trở thành con nuôi của viên quan trong triều.Rõ là Vi Cố không thoát được sự ràng buộc chân của sợi chỉ hồng trong túi cụ già ngày xưa.

Do điển này mà có những danh từ: "chỉ hồng", "tơ hồng" để chỉ việc nhân duyên vợ chồng, và "Nguyệt lão" (ông già dưới trăng), "Trăng già", "ông Tơ", để chỉ người làm mối mai. Tục xưa: khi cưới vợ, thường làm lễ Tơ hồng, tức là tế ông Nguyệt lão xe dây đỏ đó.

BÁ NHA, TỬ KỲ


Trên đường đi sứ từ nước Sở trở về, quan Thượng Ðại phu Bá Nha, đời Tống (Trung Quốc) qua vàm sông Hàn Dương, trên bờ là núi Mã An, trăng trung thu sáng tỏ; ông truyền lệnh dừng thuyền lại để ngắm cảnh đẹp. Bá Nha chơi đàn tuyệt hay, ai nghe cũng ngơ ngẩn, cây cỏ đắm say, song ông vẫn buồn và cảm thấy cô đơn; có ai hiểu hết tiếng đàn cao đẹp sâu xa của ông. Ông gửi vào tiếng đàn lý tưởng cuộc sống, tình yêu, khát vọng, giấc mơ. Dưới trăng thu, Bá Nha ôm cây đàn, lựa dây gẩy một khúc. Khúc nhạc đang ngân vang rộn rã thì đàn đứt một dây. Ông ngạc nhiên thầm nghĩ: '' Lạ lùng thật, ở nơi vắng vẻ, thâm u này lẽ nào có người biết nghe đàn ta khiến dây đàn ta phải đứt. Hay là có kẻ độc ác nào manh tâm hại ta, nên đàn đứt dây? Ông truyền lệnh cho quân lên bờ tìm bắt kẻ gian phi. Chỉ thấy một chàng tiều phu trẻ tuổi đang ngồi trên phiến đá, bên gánh củi, đang đắm đuối trong một giấc mơ. Biết vậy, quan gọi lên bờ hỏi; chàng đốn củi đáp: Thưa đại nhân, tôi đâu phải người độc ác; tôi gánh củi qua đây, thấy tiếng đàn hay tuyệt vời, nên đứng lại nghe''. Bá Nha mỉm cười chế giễu: '' Người biết nghe đàn của ta? Nơi đây hoang vu, lẽ nào có một chú tiều phu biết nghe đàn?''. Chàng trẻ tuổi nói: ''Thưa đại nhân, tôi nhớ người xưa bảo: Hễ trong nhà có quân tử, thì ngoài cổng có quân tử đến chơi. Nếu nơi núi sông hoang vắng này không có người biết nghe đàn, thì hỏi tại sao nơi đó lại có người biết đánh đàn?''. Ðể thử thật hư, Bá Nha hỏi: ''Vậy vừa rồi, ta gẩy đàn bài gì mà ngươi dừng lại nghe?''. ''Dạ, tôi vừa nghe những tiếng đàn buồn bã. Ðàn kể chuyện Khổng Tử thương tiếc người hiền Nhan Hồi còn trẻ mà tóc đã bạc, xách giỏ cơm bầu nước, sống cuộc đời trong sạch''. Bá Nha kinh ngạc vô cùng; đúng như vậy, ông vừa chơi bản nhạc lấy cảm hứng ở cuộc đời thanh bạch của Nhan Hồi. Ông vội xin lỗi chàng tiều phu và mời chàng xuống thuyền uống rượu, nghe đàn. Bá Nha thay dây đàn, rồi chìm đắm trong cảm hứng cao siêu của một lý tưởng đầy tình nhân đạo, ông gảy một bản đàn réo rắt. Nghe hết bản nhạc, chàng tiều phu reo lên: ''Ôi tuyệt, thật tuyệt, tiếng đàn cao vòi vọi lướt trên đỉnh núi'. Bá Nha giật mình nhìn chàng: thật thế, ông vẫn mơ màng đến những ngọn núi cao. Ông lại say sưa đánh bản đàn khác, lấy cảm hứng ở một giấc mơ rạo rực mênh mông. Chàng tiều phu lại reo: ''Ôi tuyệt, thật tuyệt, tiếng đàn cuồn cuộn mênh mông như nước chảy''. Bá Nha kinh hãi, lệ quanh khoé mắt. Ông đứng dậy xốc áo và cầm tay chàng trẻ tuổi nói: ''Xin chàng thứ lỗi và cho biết quý danh; từ nay xin kết bạn tri âm''. Chàng tiều phu, nét mặt hớn hở, con mắt long lanh, xưng tên là Chung Tử Kỳ. Bá Nha quý người trai tài hoa, ngỏ ý mời chàng về thành đô; đôi bạn sẽ cùng nhau vui sống. Tử Kỳ buồn rầu thưa: ''Tôi xin cảm tạ tấm lòng nhân ái của ngài, tôi còn cha mẹ già, tôi phải ở lại phụng dưỡng''. Bá Nha hẹn đến ngày này sang năm sẽ trở lại nơi này, đón cả gia quyến Tử Kỳ về kinh đô. Hai bên từ biệt nhau, vừa sung sướng vừa xúc động. Bá Nha tìm được người tri kỷ, Chung Tử Kỳ được nghe đàn.

Mùa thu năm sau, đúng ước hẹn, Bá Nha đi thuyền trên sông Hàn Dương, dừng lại bên núi Mã an. Vẫn cảnh tịch mịch hoang vu, vẫn vầng trăng tỏ. Song Bá Nha không thấy bạn cũ. Bá Nha lo lắng, một linh cảm khiến ông bồn chồn, nhìn mấy gò đống trên bờ sông, ông cùng mấy người hầu vội vã lên bờ, tìm hỏi nhà Chung Tử Kỳ. Ðến nơi, cửa nhà vắng vẻ. Một ông cụ chống gậy bước ra, đón khách vào ngồi trên chõng tre; ông cụ lau nước mắt kể lại những ngày cuối cùng của Tử Kỳ con trai ông. Chung Công nói tiếp: ''Cháu dặn hai, ba lần phải chôn cháu nơi bờ sông Hàn Dương, cạnh núi Mã An, để giữ lời hẹn năm ngoái''. Bá Nha thương xót vô cùng. Ông cùng Chung Công ra mộ Tử Kỳ, khóc lóc rất thảm thiết. Ông lấy cây đàn, so dây to, dây nhỏ. Tiếng đàn cất lên nỉ non kể cuộc gặp gỡ thần kỳ năm ngoái. Nước mắt Bá Nha rơi lã chã. Ðàn xong, ông đập đàn vào một tảng đá; đàn vỡ tan nát. Từ ngày ấy không ai nghe thấy thiếng đàn của Bá Nha nữa.

Rằng: ''Nghe nổi tiếng Cầm đài,
Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ''

(Truyện Kiều)
Than rằng: ''Lưu thuỷ cao san,
Ngày nào nghe động tiếng đàn tri âm...''

(Lục Vân Tiên)

''Nước non'', ''lưu thuỷ'', ''cao san'' nhắc đến những lời bình của Chung Tử Kỳ khi nghe Bá Nha đánh đàn dưới thuyền. ''Bá Nha, Chung Kỳ'' chỉ tình bạn tri kỷ.
Nghiêng nước nghiêng thành

 
Đời Vũ Đế nhà Hán (140-86 trước D.L.), có một người phường chèo tên Lý Diên Niên múa hát rất giỏi. Được hầu trong nội điện, cung vi của nhà vua, Lý Diên Niên được nghe vua thường than thở:

- Trẫm lập đền Minh Quang, kén hai ngàn mỹ nhân ở vùng Yên Triệu. Nhỏ nhất 15 tuổi, quá 30 tuổi sa thải cho lấy chồng. Thế mà, trong chốn dịch đình có trên 10 ngàn mỹ nhân vẫn chưa thấy ai đẹp cho vừa lòng trẫm. Thật là thiên hạ thiếu giai nhân tuyệt sắc.

Lý Diên Niên có một em gái sắc đẹp tuyệt trần, thường ra vào hầu hạ Bình Dương công chúa. Một hôm, nhân dịp múa hát chầu Vũ Đế, Lý Diên Niên hát:

Phương bắc có giai nhân

Tuyệt vời đứng riêng bực,

Một liếc, người nghiêng thành.

Hai liếc, người nghiêng nước.

Lẽ nào không biết được

Người đẹp thành nước nghiêng,

Người đẹp khó tìm gặp.

Nguyên văn:

Bắc phương hữu giai nhân

Tuyệt thế nhi độc lập.

Nhất cố khuynh nhân thành;

Tái cố khuynh nhân quốc

Khởi bất tri

Khuynh thành dữ khuynh quốc

Giai nhân nan tái đắc.

Nghe hát, Hán Vũ Đế thở dài, than:

- Thế gian lại có người đẹp đến thế chăng?

Bình Dương công chúa nhân đứng hầu bên cạnh nhà vua liền tâu:

- Diên Niên có người em gái đẹp tuyệt trần, còn hơn người trong bài hát ấy nữa.

Nhà vua truyền đòi người đẹp vào cung, xem mặt. Quả là một bực giai nhân tuyệt sắc, lại giỏi nghề múa hát, làm cho nhà vua càng mê mẩn tâm thần, liền phong làm phu nhân. Từ ấy, nhà vua chỉ say sưa đắm đuối bên mình nàng, không còn tha thiết đến một ai nữa. Năm sau, nàng hạ sinh được một con trai.

Một hôm, nàng lâm bịnh nặng, Hán Đế đến tận giường bịnh thăm hỏi. Nàng kéo chăn che kín mặt, tâu:

- Thiếp đau từ lâu, hình dung tiều tụy, không dám đem cái nhan sắc ủ dột tàn phai ra mắt đấng quân vương. Thiếp chỉ xin gởi lại nhà vua một đứa con bé nhỏ và mấy người anh em của thiếp.

Hán Đế ngậm ngùi bảo:

- Phu nhân bịnh nặng không thể qua khỏi được thì hãy giở chăn cho ta nhìn mặt, há chẳng làm cho ta được thỏa lòng sao?

Nàng vẫn che kín mặt, từ tạ:

- Theo lẽ quân thần, phu phụ, đàn bà mặt không sạch, không được ra mắt quân phụ. Vậy thiếp xin nhà vua tha thứ cho.

Nhà vua cố nài nỉ. Nàng vẫn thở dài úp mặt vào trong, không nói năng gì, vẫn giữ chặt lấy chăn.

Vũ Đế tức quá, đứng phắt dậy ra về.

Nhiều người sợ nhà vua giận, nên có ý trách nàng. Nàng trả lời:

- Đàn bà là kẻ chỉ hay lấy nhan sắc thờ chồng. Nhan sắc kém, tình duyên sẽ phai nhạt, và tình yêu sẽ kém. Nhà vua quyến luyến ta chỉ vì nhan sắc xinh đẹp lúc mạnh. Nay ta đau, nhan sắc suy kém, so với thiên hạ ta là kẻ xấu xa. Nhìn mặt ta, nhà vua sẽ chán thì khi nào còn tưởng nhớ đến ta mà ban ân huệ cho anh em ta nữa.

Sau đó nàng chết. Vua Vũ Đế chôn cất nàng rất hậu, lại truyền họa sĩ vẽ hình nàng treo ở cung Cam Tuyền, phong cho anh em nàng quan tước cao.

Ngày tháng qua nhưng hình bóng người đẹp vẫn lởn vởn trước mắt, và mối tình thương nhớ vẫn canh cánh bên lòng... mà nhà vua không tìm thấy thú vui, người đẹp nào bằng người đã khuất.

Đời nhà Đường (618-907), vua Đường Minh Hoàng dắt Dương Quí Phi thưởng hoa mẫu đơn ở đình Cẩm Hương, sai người vời Lý Bạch đến bắt dâng ngay ba bài "Thanh Bình điệu". Lý còn say rượu nhưng cầm bút viết luôn ba bài. Bài thứ ba có câu:

Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,

Thường đắc quân vương đới tiếu khan.

Nghĩa:

Danh hoa nghiêng nước sánh đôi vui,

Để xứng quân vương một nụ cười.

Chữ "khuynh quốc" để chỉ cái đẹp tuyệt với của Dương Quí Phi.

Trong "Đoạn trường tân thanh", thi hào Nguyễn Du tả sắc đẹp nàng Kiều cũng có câu:

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.



"Nghiêng nước, nghiêng thành" xuất sứ ở bài hát của Lý Diên Niên.
Kết cỏ ngậm vành
 Kết cỏ ngậm vànhĐời Xuân Thu (551-479 trước D.L.), tướng nước Tần là Đỗ Hồi, đem quân sang đánh nước Tấn.

Hồi vốn là một lực sĩ, răng nhọn hoắc, mắt tròn xoe, tay cứng như đồng, mặt đen tựa sắt, râu xồm tóc quăn, thân cao to lớn, chuyên sử dụng cây Khai Sơn đại phủ (búa to) nặng 120 cân, người giống Bạch Địch. Đã có lần ở Thanh Mi Sơn, Đỗ đâm chết luôn 5 con hổ, lột da đem về. Và, cũng có lần, Đỗ chỉ huy 300 quân mà phá vỡ được hơn 10 ngàn quân giặc ở Sa Nga Sơn. Uy danh càng lừng lẫy.

Tướng của nước Tấn là Ngụy Khỏa đem binh ra nghinh chiến. Đỗ Hồi dẫn 300 quân xông vào mặt trận, múa cây Khai Sơn đại phủ tung hoành chém giết. Búa đến đâu là đầu rơi long lóc. Quân Tấn chết nằm ngổn ngang như rạ.

Ngụy Khỏa vội vàng rút quân, đóng chặt cửa thành, giữ lấy thế thủ. Mặc cho Đỗ Hồi đến khiêu chiến, chửi rủa thậm tệ suốt cả mấy ngày. Vừa lúc ấy có em của Ngụy Khỏa là Ngụy Kỳ vâng lịnh vua Tấn đem binh tiếp ứng. Khỏa thuật cả việc lại. Kỳ không tin, hôm sau đem quân ra nghinh chiến.

Đỗ Hồi lại múa búa, tả xông hữu đột, chém giết quân Tấn tơi bời, máu chảy tợ suối. Ngụy Kỳ thua to. May nhờ có Khỏa liều thân đem quân tiếp cứu mới về được thành.

Đêm hôm ấy, Ngụy Khỏa ngồi buồn rầu, nghĩ quanh nghĩ quẩn, không biết dùng mưu kế gì để phá địch. Đương mơ màng, bỗng nghe có tiếng người văng vẳng bên tai: "Thanh Thảo Pha! Thanh Thảo Pha!" Đến lúc tỉnh dậy, không hiểu nghĩa là sao, mà chợp mắt ngủ lại nghe như trước. Khỏa thuật lại cho Kỳ biết. Kỳ nói:

- Cách đây độ mười dặm (1 dặm bằng 576 thước tây), có một bãi cỏ tên "Thanh Thảo Pha", có lẽ thần minh mách bảo quân Tần sẽ bị bại tại đó. Vậy tôi xin đem một toán quân mai phục sẵn, rồi anh lập kế dụ quân giặc đến. Bấy giờ hai bên đổ ra cùng đánh, chắc chắn sẽ thắng.

Khỏa bằng lòng.

Sáng ra, Ngụy Khỏa giả cách truyền lịnh rút quân. Quả nhiên, Đỗ Hồi đem quân đuổi theo. Khỏa giao chiến qua loa một lúc rồi bỏ chạy, dụ Hồi đến Thanh Thảo Pha. Quân mai phục của Ngụy Kỳ ở hai bên, bất thần đổ ra hợp với quân của Khỏa vây chặt lấy Đỗ Hồi. Hồi chẳng nao núng, múa búa tung hoành như vào chỗ không người. Nhưng bỗng nhiên, Đỗ Hồi đi mỗi bước lại ngã chút một cái, như người bị trượt chỗ nước băng. Quân Tấn lấy làm ngạc nhiên, reo ầm cả lên.

Ngụy Khỏa ngẩng trông thấy một lão già, mặc áo vải chân đi thảo hài, đương kết cỏ lại làm vướng chân Đỗ Hồi. Bấy giờ, Khỏa và Kỳ xông lại bắt sống. Quân Tần mất tướng chỉ huy nên bỏ chạy tán loạn, bị quân Tấn đuổi bắt giết gần hết.

Đem Đỗ Hồi về dinh, Ngụy Khỏa hỏi:

- Mầy cậy có sức khỏe, nhưng nay sao để bị bắt?

Hồi uất hận, trả lời:

- Ta đương đánh, không biết có vật gì trói lấy chân làm cho ta ngã. Đó là trời hại ta, chớ không phải ta thua.

Ngụy Khỏa nghe nói lấy làm lạ. Thấy Hồi có sức mạnh phi thường, sợ thoát thân được nên Khỏa và Kỳ đồng ý đem giết chết, cắt lấy đầu đem về dâng vua Tấn.

Đêm hôm ấy, Ngụy Khỏa nằm ngủ, mơ màng thấy ông lão kết cỏ ở Thanh Thảo Pha hiện đến, vái chào và nói:

- Tướng quân có biết tại sao Đỗ Hồi bị bắt hay không? Vì tôi kết cỏ lại để làm cho Đỗ Hồi vướng chân mà ngã đó.

Ngụy Khỏa kinh sợ, chấp tay đáp lễ, nói:

- Tôi chưa được biết cụ bao giờ, sao cụ lại có lòng tốt quý giúp tôi như vậỷ Tôi biết lấy gì mà trả ơn cụ!

Ông lão nói:

- Tôi là cha của nàng Tố Cơ. Tướng quân theo lời trị mệnh của tiền nhân không chôn sống con tôi, mà còn tìm chỗ xứng đáng gả cho con tôi lấy chồng. Vậy tôi cảm ơn ấy mà giúp tướng quân. Sau này con cháu tướng quân vẫn được đời đời vinh hiển.

Nói xong biến mất.

Nguyên xưa, thân phụ của Ngụy Khỏa là Ngụy Thù có một người thiếp yêu tên Tố Cơ. Mỗi khi Ngụy Thù đi đánh giặc thì thường dặn dò Ngụy Khỏa: "Nếu cha chẳng may chết ở chiến trường, con nên tìm chỗ tử tế mà gả Tố Cơ để nàng khỏi phải khổ sở tấm thân. Cha dẫu chết cũng được yên lòng!"

Nhưng đến lúc Ngụy Thù đau nặng, trước phút lâm chung, lại bảo Khỏa:

- Tố Cơ là người thiếp yêu của cha. Khi cha chết rồi, con phải đem nàng mà chôn theo cha để cho cha ở suối vàng có người làm bạn.

Ngụy Thù chết. Ngụy Khỏa an táng cho cha nhưng không bắt Tố Cơ chôn theo. Ngụy Kỳ hỏi tại sao không vâng lời cha trối lúc lâm chung thì Khỏa đáp:

- Thân phụ lúc nào cũng dặn ta sau này nên gả Tố Cơ lấy chồng. Nhưng đến lúc gần mất, lại dặn phải đem chôn theo. Bởi vậy, kẻ hiếu tử nên theo trị mệnh, chớ không theo loạn mệnh.

Sau, Ngụy Khỏa gả Tố Cơ cho một danh sĩ. Vì có ân đức ấy, nên linh hồn của thân phụ Tố Cơ hiện lên để kết cỏ báo ơn.

"Ngậm vành" do chữ "Hoàng tước hàm hoàn" nghĩa là chim hoàng tước ngậm vòng.

Đời nhà Thương (1733-1154 trước D.L.), triều vua Thái Mậu (1637-1562 trước D.L.), có một chư hầu đem dâng cho nhà vua một con chim hoàng tước trống.

Được chim quý, nhà vua truyền làm một chiếc lồng bằng vàng, chén ăn bằng ngọc và bắt thái giám cho lo săn sóc cực kỳ cẩn thận. Nhưng chim ngày ngày vẫn ủ rũ, không chịu nhảy nhót, kêu hót, vui đùa. Hằng ngày, ngoài vườn, lại có một con chim hoàng tước mái cất tiếng kêu thật bi đát, giọng mỗi lúc càng thảm thiết não nùng. Chim hoàng tước trống ở trong lồng nghe tiếng chim mái ở bên ngoài kêu thì lại càng ủ dột, buồn bã, bỏ ăn bỏ uống. Thỉnh thoảng lại kêu lên một giọng bi thảm.

Thấy chim trống buồn, chim mái kêu bi thương, vua Thái Mậu động lòng thương xót, truyền thả chim hoàng tước trống ra. Được thoát khỏi lồng, trống mái xum họp. Đôi chim bay lượn ba vòng chung quanh đền, cất tiếng hót véo von, giọng trong trẻo lảnh lót.

Một thời gian, nhà vua đương ngự trên đền, bỗng thấy con chim hoàng tước trống bay đến, miệng ngậm một chiếc vòng. Chim lại sà trước mặt nhà vua, nhả chiếc vòng ngọc quý rồi vỗ cánh múa, tỏ vẻ tạ ơn.

Cũng tích "Ngậm vành":

Đời Hậu Hán (25-219) có cậu bé tên Dương Bảo, một hôm đi chơi bên cạnh một khu rừng, thấy một con chim sẻ vàng óng ánh bị chim cắt đánh rơi xuống đất. Chim sẻ què chân, gãy cánh, giãy giụa, kêu la thảm thiết. Bảo đem về chăm sóc, nuôi nấng. Đến khi chim mạnh, lành thì cho bay đi.

Một hôm, có một chàng tuấn tú khôi ngô, mặc áo vàng đến, nói với Bảo:

- Tôi là sứ giả của bà Tây Vương Mẫu, chẳng may gặp nạn, may nhờ ông cứu, ơn ấy chẳng quên. Vậy xin dâng ông 4 vòng ngọc quý, chúng sẽ làm cho bốn đời nhà ông được hưởng phú quý, sang làm đến tước Tam Công.

Dương Bảo vừa nhận lấy vòng, chưa kịp tạ ơn thì chàng trai áo vàng biến mất. Quả nhiên về sau, bốn đời họ Dương đều sang cả đúng như lời.

Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích, nhờ Sở Khanh dắt đi trốn mong thoát khỏi nanh vuốt của Tú Bà, nàng có lời tha thiết nói với họ Sở:

Rằng "Tôi bèo bọt chút thân,

Lạc đàn mang lấy nợ nần yến oanh.

Dám nhờ cốt nhục tử sinh,

Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau.

"Kết cỏ ngậm vành" là do những điển tích trên, ý nói thọ ơn bao giờ cũng đền đáp.
Nam Tào, Bắc Đẩu

 
Quản Lộ tự Công Minh, vốn người ở đất Bình Nguyên đời Tam Quốc (220-264) diện mạo xấu xí, thích uống rượu. Từ bé, Lộ ham xem thiên văn, thường đêm nằm nhìn trăng sao, thao thức không chớp mắt, cha mẹ ngăn cấm không được.

Vừa lớn lên, Quản Lộ đã làu thông kinh Dịch, hiểu hết nghĩa uyên thâm, biết đoán chiều gió, tinh thông khoa lý số và giỏi cả xem tướng.

Một hôm, Lộ ra cánh đồng dạo chơi, thấy một gã thanh niên đương cày ruộng. Lộ đứng lại bên đường, đứng ngắm một lúc, đoạn gọi lại hỏi:

- Này anh kia, dám hỏi quý danh là gì? Niên canh bao nhiêu?

- Tôi họ Triệu tên Nhan, 19 tuổi. Dám hỏi tiên sinh là ai?

Lộ đáp:

- Ta là Quản Lộ đây. Ta thấy trên quầng mắt anh có tử khí. Chỉ còn ba ngày nữa là anh chết. Tiếc thay, gương mặt anh xinh đẹp thế mà không thọ.

Triệu Nhan nghe nói lo sợ, về ngay báo cho cha biết. Người cha lập tức chạy theo tìm gặp Quản Lộ, rồi phủ phục xuống đất, kêu khóc:

- Xin tiên sinh rủ lòng thương, trở lại cứu mạng con tôi.

Lộ nói:

- Đó là số trời, cầu đảo sao được!

Ông lão năn nỉ, van lơn:

- Già này chỉ có một đứa con, xin ngài cứu cho, kẻo khổ một đời...

Nói xong, cả hai cha con dập đầu lạy, khóc bù lu bù loa, trông rất bi thiết.

Lộ thấy cha con lão thiệt tình, lòng không nỡ bỏ, mới bảo Triệu Nhan:

- Anh hãy về tìm một vò rượu ngon rất tinh khiết với một ít thịt nai thật thơm, ngày mai đem vào núi Nam Sơn, tìm gốc cây cổ thụ, sẽ thấy ở trên phiến đá có hai dị nhân ngồi đánh cờ. Một ông ngồi quay về Nam mặc áo trắng, dung mạo dữ tợn, một ông quay về hướng bắc mặc áo hồng, dung mạo rất đẹp. Bấy giờ thừa lúc hai vị cao hứng mải mê đánh cờ, anh cứ bày rượu thịt ra mâm dâng lên. Đợi cho ăn uống xong, sẽ lạy khóc mà xin tuổi thọ. Như thế may được sửa sổ lại. Nhưng nhớ kỹ một điều: chớ nói là ta xúi anh nhé.

Ông lão mời Quản Lộ ở lại nhà mình chờ xem.

Hôm sau, Triệu Nhan cắp nắp rượu ngon, nem thơm, dĩa chén vào núi Nam Sơn. Đi độ năm sáu dặm, quả thấy hai dị nhân đang ngồi đánh cờ trên phiến đáa, dưới bóng rườm rà của cây tùng.

Triệu Nhan đội mâm rượu đến gần. Hai ông vẫn chăm vào bàn cờ, như không có người đứng bên cạnh. Nhan quỳ xuống dâng mâm lên, đặt trên thạch bàn.

Hai ông mải mê đánh cờ, bất giác đưa tay nâng chén... rồi dần dần vừa đánh vừa ăn uống hết cả rượu thịt một cách ngon lành.

Lúc bấy giờ, Nhan mới khóc òa lên và lạy lục xin cầu thọ. Hai ông giựt nẩy mình nhìn lại. Đoạn ông mặc áo đỏ bảo ông mặc áo trắng:

- Hẳn là gã họ Quản xúi nó đến đây, nhưng hai ta đã dùng của nó thì phải thương nó.

Ông áo trắng liền rút quyển sổ trong mình ra, tìm xét, rồi bảo Nhan:

- Năm nay mày 19 tuổi, đáng lý phải chết, giờ đây ta thêm cho một chữ "cửu" lên trên hai chữ "thập cửu" thì mày sẽ sống đến 99 tuổi. Nhưng phải về báo gã Quản Lộ rằng: từ nay phải chừa đi, chớ có tiết lộ thiên cơ nữa. Nếu không trời sẽ khiển phạt, nghe chưa?

Ông áo đỏ cũng mở sổ, thêm vào một nét bút. Rồi một cơn gió thơm ngào ngạt bay qua, hai vị tiên biến thành hai con hạc trắng, bay lên trời mất hút.

Triệu Nhan mừng rỡ, về nhà hỏi Quản Lộ về hai vị tiên ông ấy.

Quản Lộ nói:

- Ông mặc áo hồng chính là ngôi Nam Đẩu hay gọi là Nam Tào. Ông áo trắng là ngôi Bắc Đẩu đấy.

Nhan lại hỏi:

- Tôi nghe nói Bắc Đẩu có những 9 vị, sao chỉ thấy có một ông?

Lộ giải thích:

- Phân tán thì thành 9, kết hợp lại thành một. Bắc Đẩu ghi sổ tử, Nam Tào ghi sổ sinh. Nay đã được sửa số tuổi rồi anh còn lo gì nữa!

Cha con họ Triệu mừng rỡ lạy tạ.

Từ đó, Quản Lộ sợ tội tiết lậu thiên cơ không dám khinh xuất nói hở việc huyền bí cho ai biết nữa.

Ông Đào là ai mà Nguyễn Khuyến phải thẹn?

Đào Uyên Minh còn gọi là Đào Tiềm (365 - 427), tự Nguyên Lượng, người đất Tầm Dương, Cửu Giang, tỉnh Giang Tây. Từ năm 29 đến năm 41 tuổi, có nhiều lần Đào Uyên Minh ra làm quan và cũng nhiều lần xin từ chức. Đến năm 405, ông chính thức tuyên bố rút về ở hẳn với điền viên. Lúc bấy giờ ông mới 40 tuổi và viết bài thơ “Quy khứ lai từ” (Về đi thôi!).
Nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) hiệu là Quế Sơn, người làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Bấy giờ thực dân Pháp đang đánh chiếm dần cả nước ta, buồn vì không làm được gì trước cảnh nước mất nhà tan, năm 1884, ông cáo quan về sống tại quê nhà. Nguyễn Khuyến có 3 bài thơ về mùa thu thường được người đời nhắc đến nhiều, đó là “Thu vịnh” (Vịnh mùa thu), “Thu ẩm” (Uống rượu mùa thu) và “Thu điếu” (Mùa thu câu cá) đều là thơ Nôm. Bài thơ “Thu vịnh” của Nguyễn Khuyến như sau:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trông như từng khói phủ
Song thưa để mặc ánh trăng vào
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”.
Các bản chú thích đều viết chung chung: ông Đào ở đây là Đào Uyên Minh người đời Tấn bên Trung Quốc, là một nhà thơ làm quan nổi tiếng về phẩm chất thanh cao. Nhưng cụ thể ông Đào là người như thế nào và thơ văn ông ra sao thì ít người được biết thật tường tận. Vì vậy, để mọi người thật hiểu bài thơ của Nguyễn Khuyến và câu kết của bài thơ “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”, chúng ta cùng đi tìm hiểu.
Đào Uyên Minh còn gọi là Đào Tiềm (365 - 427), tự Nguyên Lượng, người đất Tầm Dương, Cửu Giang, tỉnh Giang Tây. Cuối thời Đông Tấn, giai cấp thống trị tranh giành quyền lợi, âm mưu cát cứ, tiến hành chiến tranh. Nông dân bị bọn quan lại địa chủ chiếm đoạt, sưu thuế hà khắc, lao dịch nặng nề. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân nổ ra. Đào Uyên Minh đã phải chứng kiến cuộc phong ba bão táp ấy. Lúc nhà Đông Tấn mất, ông đã hơn 55 tuổi.
Từ năm 29 đến năm 41 tuổi, có nhiều lần Đào Uyên Minh ra làm quan và cũng nhiều lần xin từ chức. Đến năm 405, ông chính thức tuyên bố rút về ở hẳn với điền viên. Lúc bấy giờ ông mới 40 tuổi và viết bài thơ “Quy khứ lai từ” (Về đi thôi!). Trong lời tựa bài thơ, ông nói rõ lý do vì sao đã ra làm quan và vì sao lại bỏ quan về ở ẩn: “Nhà tôi nghèo cày cấy không đủ ăn. Nhà nhiều trẻ, trong nhà không mấy khi có gạo. Chẳng có cách gì kiếm đủ những cái cần thiết, bà con thân thích thường khuyên tôi ra làm trưởng lai”… Trong thời gian lui về ở ẩn, đôi lần các triều đại có vời ông ra làm quan, nhưng ông không ra, ở nhà cày ruộng, uống rượu ngâm thơ, tự do trong cảnh vui thú ruộng vườn hơn 20 năm, mặc dù lúc về nhà, đời sống ông vẫn lao đao, túng quẫn. Toàn bộ thơ Đào Uyên Minh có 114 bài. Ngoài ra có một số phú, văn tế đều nổi tiếng.
Về mặt tư tưởng, Đào Uyên Minh không đứng hẳn về một phe phái nào nhất định. Thời trẻ, ông có tư tưởng của kẻ du hiệp. Khi về ở ẩn, ông lại mang tư tưởng Lão Trang. Nhưng tổng quát thì thấy ở ông nổi trội hơn cả là tư tưởng Khổng Giáo. Ông căn cứ vào tư tưởng, quan điểm của Nho gia mà phê phán hiện thực đương thời và ca tụng quan niệm luân thường đạo đức Nho gia, dựa vào phương châm Nho giáo mà an bần lạc đạo, nhất định không chịu hợp tác với bọn thống trị.
Nội dung tư tưởng trong thơ văn của Đào Uyên Minh có hai nội dung chính: một là thái độ bất hợp tác với chế độ thống trị đương thời, hai là một cuộc sống gần gũi với nông dân. So sánh đời sống tư tưởng và tình cảm cũng như thái độ và hành động của Đào Uyên Minh và Nguyễn Khuyến quả có nhiều nét giống nhau. Tuy ở hai nước khác nhau, hai thời đại khác nhau cách nhau cả nghìn năm nhưng có những nét tương đồng. Đó là một xã hội nhiễu nhương như nhau mà hai ông cùng không muốn hợp tác, tìm con đường về ở ẩn. Mà hàng nghìn năm chế độ phong kiến Việt Nam, những người ảnh hưởng Hán học như Nguyễn Khuyến ít nhiều đều có tư tưởng khâm phục những tấm gương của các danh sĩ Trung Quốc.
Thực ra chưa hẳn ai đã hơn ai nhưng rõ là do tâm thế của danh sĩ nước nhỏ. “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” còn có thể hiểu Nguyễn Khuyến là người đời sau, ông về ở ẩn khi đã 50 tuổi (trong khi Đào Uyên Minh về ở ẩn còn trẻ hơn ông 10 tuổi), Nguyễn Khuyến lại tham gia cuộc thi vịnh Kiều do Lê Hoan tổ chức hoặc làm gia sư trong dinh Hoàng Cao Khải trong khi Đào Uyên Minh thì dứt khoát từ chối mọi lời mời hợp tác của giai cấp thống trị… Có phải như vậy chăng? Hay đó là một cách nói khiêm tốn của nhà Nho? Hoặc Nguyễn Khuyến đã hiểu hết giá trị của thơ Đào Uyên Minh mà người đời không nhìn thấy? Bởi theo nhà thơ Chử Vân Long viết trên báo “Tiền phong chủ nhật” số 44 ra ngày 29/10/2006: “Đào Uyên Minh thời ông sống và mãi sau này, ông chỉ được coi là nhà thơ hạng C. Vậy mà hiện nay, Trung Quốc bình giá lại văn chương đã đưa ông lên ngang với “thơ tiên” Lý Bạch, nhà thơ số một đời Đường”.

(Sưu tầm)
__________________

Sự thật về cuộc đấu súng của Puskin

Cuộc đấu súng của Pushkin và Dantes diễn ra ngày 8 tháng 2 năm 1837. Hai ngày sau, 10 tháng 2, nhà thơ số một của nước Nga qua đời. Theo giả thuyết chính thức, Pushkin bị chết bởi một vết tử thương từ viên đạn súng lục của Dantes. Tất nhiên, nếu cuộc đấu súng diễn ra trong thời đại chúng ta thì nhà thơ có thể được cứu sống - các nhà y học nhiều lần khẳng định rằng vết thương của Pushkin không nghiêm trọng lắm, nhưng khoa học lúc bấy giờ chưa đủ trình độ để cứu chữa cho ông.

Gây ra nhiều tranh cãi hơn cả là nguyên nhân dẫn tới cuộc đấu súng bất hạnh. Nói một cách khác, ai là người có lỗi trong cái chết của Aleksandr Pushkin? Về vấn đề này lâu nay đã tồn tại rất nhiều giả thuyết, chứng cứ khác nhau, nhiều lời đồn đại và đàm tiếu, nhiều nhân chứng, từ các bác sĩ đến bạn bè của nhà thơ. Hơn nữa, sự thật, tất nhiên, ở mỗi người một khác.

Giả thuyết cổ điển được giảng dạy ở trường phổ thông như sau: một vài năm sau khi cưới cô vợ trẻ xinh đẹp Natalya Goncharova, Pushkin chạm trán với kẻ tình địch của mình George Dantes. Anh chàng người Pháp này ra sức ve vãn vợ của Pushkin, sau đó bị thách đấu súng và đã sát hại nhà thơ. Tuy nhiên, càng ngày các nhà nghiên cứu càng phát hiện ra nhiều chi tiết khác biệt so với những gì ban đầu chúng ta lầm tưởng.

Cuộc đấu súng thứ nhất của Pushkin và Dantes không thành vì nó được thách trước thềm đám cưới của Ekaterina Goncharova (chị gái của Natalya) và Dantes. Và cuộc đấu súng lần thứ hai do Pushkin thách đã trở thành định mệnh.

Ngoài rất nhiều những phỏng đoán khác nhau về mối quan hệ qua lại bên trong bộ ba này còn có một số giả thuyết đã được khẳng định bằng tư liệu: tất nhiên ở mức độ mà những người ngoài có thể phán xét về chúng.

Giả thuyết đầu tiên và thú vị nhất thuộc về bá tước Aleksandr Vasilyevich Trubetskiy, vốn là người không quen biết thân tình với Pushkin, nhưng hiểu ông rất rõ qua các cuộc gặp gỡ riêng trong xã hội thượng lưu Peterburg và qua mối quan hệ gần gũi của mình với Dantes. Câu chuyện được ghi lại của bá tước kể về một mối quan hệ hoàn toàn mới đối với tấn bi kịch này. Theo các hồi ức và chứng cứ mà Trubetskiy tiếp cận được thì Pushkin hoàn toàn không ghen Natalya với Dantes. Tình hình ở đây hơi khác thường - Pushkin yêu cô em gái của vợ, Alexandrine, một người không xinh đẹp như bà chị, nhưng lại cực kỳ thông minh. Nàng cũng đem lòng yêu nhà thơ khi ông còn chưa cưới Natalya, và hơn nữa, nàng nhớ thuộc lòng tất cả các tác phẩm của ông. Như Trubetskiy khẳng định, Pushkin đã đáp lại mối tình của Alexandrine.

Dantes thường hay đến chơi nhà Pushkin. Anh ta tán tỉnh Natalya như là tất cả những người đẹp khác, nhưng nói chung anh ta cũng không say đắm nàng một cách đặc biệt. Những bức thư do Liza, người hầu của Natalya, chuyển tới cũng không nói lên điều gì: trong thời chúng ta đó là chuyện bình thường. Pushkin biết rất rõ rằng Dantes không thực sự say đắm vợ mình, nhà thơ nói chung không ghen, nhưng như ông nói, ông rất ghét Dantes bởi lối cư xử hơi hỗn láo, ngôn ngữ khiếm nhã đối với các bà, bá tước Trubetskiy khẳng định.

Vâng, Pushkin có ác cảm với Dantes, nhưng ông cũng chỉ dừng lại ở đó. Cuộc đấu súng trở thành hậu quả của một mối ghen tuông khác - với cô em gái Alexandrine: chẳng bao lâu sau lễ cưới Pushkin đi lại với Alexandrine và sống cùng nàng. Sự kiện này không còn gì phải nghi ngờ. Chính Alexandrine đã thú nhận điều đó. Bạn hãy nghĩ xem, trong hoàn cảnh đó liệu Pushkin còn có thể ghen vợ mình với Dantes. Nếu như Pushkin không thích những cuộc viếng thăm của Dantes, thì nói chung không phải vì Dantes tán tỉnh và pha trò với vợ ông, mà là vì khi đến chơi nhà Pushkin, Dantes gặp gỡ với Alexandrine.

Nguyên nhân chính của cuộc đấu súng là sự kiện Dantes cùng với vợ là Ekaterina sắp sửa rời nước Nga sau lễ cưới và Alexandrine cũng chuẩn bị đi cùng họ. Tất nhiên, vì câu chuyện tình giữa Pushkin và Alexandrine được giữ bí mật rất cẩn thận, nên mối quan hệ của Dantes với Natalya đã trở thành nguyên nhân chính thức.
Giả thuyết thứ hai thuộc về một hậu duệ của George Dantes, nam tước Loter de Gekkern Dantes. Trong bài trả lời phỏng vấn gần đây trên tờ Thanh niên Moskva ông đã đưa ra giả thuyết của mình dựa trên nhiều công trình nghiên cứu. Theo nam tước, Pushkin yêu Natalya, yêu một cách chân thành, ngưỡng mộ nàng, nhưng lại tỏ ra rất “gia trưởng”, ông không cho vợ thể hiện cá tính của mình. Loter de Gekkern đã đưa ra một bằng chứng là lá thư của nhà thơ gửi mẹ vợ của mình, bà Natalya Ivanovna Goncharova, trong đó ông viết: “Nghĩa vụ của vợ con là phục tùng những gì con cho phép”.

Vladimir Fridkin, tác giả cuốn sách “Ngành Pushkin học ở nước ngoài”, viết: “Khi cưới Natalya, Pushkin ý thức được rằng Natalya còn chưa yêu ông, và ông đã viết điều đó cho bà mẹ vợ. Nhưng vào năm 1831 ông muốn tu tỉnh và tin rằng có thể sống hạnh phúc với Natalya. Nàng chính là nguyên mẫu của nhân vật Tachyana Larina trong tiểu thuyết thơ “Evgeniy Onegin” – điềm đạm, thuỷ chung, kín đáo... Nhưng ta hãy nhớ lại xem tác phẩm này đã kết thúc như thế nào: là vợ của một viên tướng, nhưng linh hồn của Tachyana lại thuộc về một người đàn ông khác. Đối với Pushkin sự chung thuỷ về thể xác của nhân vật đối với người chồng hợp pháp trong câu chuyện này không phải là điều chủ yếu. Đối với các thi sĩ nói chung linh hồn bao giờ cũng quan trọng hơn...

Chính vì vậy, ngày 4 tháng 11 năm 1836, sau khi nhận được bức thư nặc danh về sự phản bội của vợ, Pushkin đã tra hỏi Natalya Nikolayevna và nàng đã chính thức thừa nhận có quan hệ với Dantes. Điều quan trọng không phải là sự phản bội về thể xác, mà là tinh thần. Ngôi nhà của thi sĩ giây phút này sụp đổ như làm bằng các tông, Vladimir Fridkin viết tiếp. - Pushkin đánh mất ý nghĩa cuộc sống của mình. Ông không muốn giết chết người khác chỉ vì hắn được vợ mình yêu. Nhưng có thể tìm cái chết cho chính bản thân mình bằng chuyện đó. Rất có thể đấy là nguyên nhân của những hành động rồ dại của Pushkin trong những tháng cuối cùng của cuộc đời. Trong hồi ký của mình Sologub viết: “Tất cả mọi người đều ngăn cản Pushkin. Chỉ một mình ông không muốn điều đó”. Pavlishchev, con rể của Pushkin cũng viết: “Nhà thơ tìm đến cái chết, vì ông sẽ rất bất hạnh, nếu như còn sống...

Tuy nhiên giả thuyết này không được bà Galina Sedova, người phụ trách nhà lưu niệm Pushkin, tác giả cuốn sách vừa hoàn thành về những tháng cuối đời của nhà thơ, chia sẻ. Theo bà, giả thuyết cho rằng Pushkin muốn kết thúc cuộc đời là không chính xác: “Ông muốn sống, làm việc và hoàn toàn không có ý định chết. Ví dụ, trong ngày đi đấu súng ông còn yêu cầu chuyển các vở kịch cho tờ tạp chí của mình”.
Ngoài ra, nhà nghiên cứu còn nhận xét rằng đóng vai trò quan trọng trong câu chuyện này là người làm chứng của George Dantes, hầu tước Olivie d'Arshiak: ông ta luôn tìm cách hoà giải các đối thủ. Ông ta đã thực hiện thành công điều đó vào tháng 11 năm 1836, khi Pushkin lần đầu tiên thách đấu với Dantes. Chính vì sợ d'Arshiak lại thuyết phục được họ, đêm trước cuộc đấu súng bất hạnh Pushkin tìm mọi các tránh gặp ông ta.

Qua các hồi ức của những người đương thời, Sedova nhận xét rằng trước ngày xảy ra cuộc đấu súng Pushkin viếng thăm rất nhiều bạn bè. Thậm chí ông còn đến gặp cả nhà văn Fedorov và trò chuyện gần hai giờ đồng hồ, mặc dù Fedorov là người mà Pushkin luôn luôn coi thường. Từ đó có thể kết luận rằng Pushkin muốn kéo dài thời gian.

Nhiệm vụ thứ hai mà nhà thơ đã hoàn thành là ý định bảo vệ người làm chứng của mình Konstantin Danzas khỏi bị truy tố vì đã không báo cáo về cuộc đấu súng đang được chuẩn bị.

Sedova cho rằng Pushkin đã chọn trước cho mình người làm chứng là Danzas và thoả thuận cùng với ông ta về điều đó. Tuy nhiên về sau nhà thơ đã làm tất cả để chứng minh rằng thoả thuận đó xuất hiện ngay trước cuộc đấu súng.

Pushkin đã giới thiệu người làm chứng của mình vào phút chót. Ông đã giải quyết hai vấn đề - bảo vệ cho Danzas khỏi bị truy tố và loại trừ khả năng bị d'Arshiak hoà giải. Không một ai để ý tới những chi tiết tế nhị này.

Về sau Danzas bị xét xử vì ông là người làm chứng cho Pushkin và không báo cáo về cuộc đấu súng. Các lời khai của ông ta cho thấy rằng vào ngày xảy ra cuộc đấu súng ông đã gặp Pushkin bên chiếc cầu ở Vườn mùa hạ. Họ lặng lẽ đi tới đại sứ quán Pháp và gặp d'Arshiak. Chỉ ở đây Pushkin mới kể cho ông ta hết mọi việc, họ đưa ra các điều kiện của cuộc đấu súng, rồi các thành viên đi đến sông Đen. Và kết quả điều tra đã chứng minh rằng Danzas quả thật là người làm chứng một cách ngẫu nhiên, vào đúng phút chót, tình tiết này đã làm giảm tội cho ông ta.

Tuy nhiên, trên đây vẫn là những giả thuyết về cuộc đấu súng của Pushkin. Trong tương lai các nhà lịch sử và nhà nghiên cứu sẽ còn phải đưa ra các giả thuyết khác trên cơ sở những tư liệu có thể sẽ được tìm thấy nữa - chỉ một điều chúng ta có thể nói chắc chắn: ngày 10 tháng 2 năm 1837 nước Nga đã vĩnh viễn mất đi một Thi sĩ Vĩ đại.

(Sưu tầm)
__________________

Ngàn dâu

 
"Ngàn dâu" do chữ "Mạch thượng tang".

Ở Trung Hoa ngày xưa, nơi thôn quê, người ta thường trồng dâu gần bên đường.

"Mạch thượng tang" cũng là tên khúc hát cổ nhạc phủ của nàng La Phu nước Triệu thời Xuân Thu.

Trong "Chinh phụ ngâm", nguyên tác bằng Hán văn của Đặng Trần Côn, đoạn tả tình cảm của nàng chinh phụ lúc tiễn chồng ra đi, có câu:



Tương cố bất tương kiến,

Thanh thanh mạch thượng tang.

Mạch thượng tang, mạch thượng tang,

Thiếp ý quân tâm thùy đoản trường.



Bà Đoàn Thị Điểm dịch nôm:



Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.

Ngàn dâu xanh ngắt một màu,

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.



Nguyên nàng La Phu là một thiếu phụ sắc nước hương trời, văn chương âm nhạc nổi tiếng. Chồng nàng là một chiến sĩ hải hồ. Cả hai vẫn yêu nhau tha thiết. Nhưng rồi "trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương" nên chàng xách kiếm sang Tần, ước hẹn vợ một thời gian trở về.

Nàng La Phu ở quê nhà, ngày ngày hái dâu chăn tằm, dệt vải. Những lúc đêm dài canh vắng, nàng lẻ loi, thui thủi bóng mình nên thường sáng tạo những bài thơ điệu

cổ nhạc phủ để tỏ nỗi lòng thương nhớ người xa vắng.

Một hôm, nàng đương hái dâu bên vệ đường, bất chợt Triệu vương du ngoạn sang ngang, nhìn thấy người thiếu phụ thô quê nhưng sắc đẹp mỹ miều lấy làm động lòng. Hỏi người biết nàng là kẻ tài hoa, văn hay đàn giỏi, Triệu vương càng say mê hơn nữa. Về triều, Triệu vương cho người đến đòi La Phu tới. Nhà vua dọn tiệc khoản đãi ân cần, mong được cùng giai nhân vầy duyên ân ái.

Nàng buồn rầu ứa lệ nhưng còn vị nể chúa tôi nên nàng ngồi vào tiệc, đoạn cầm đàn lên gẩy, hát khúc"Mạch thượng tang" để tỏ ý mình. Triệu vương tuy hiếu sắc những thông minh. Nghe qua bài hát, bản đàn biết thâm ý của nàng là bao giờ cũng liều chết để bảo vệ trinh tiết cùng chồng, giàu sang, uy quyền và bạo lựckhông làm lay chuyển lòng người trinh phụ. Triệu vương vừa hối hận vừa thẹn thuồng nên truyền cho La Phu về, bỏ mộng luyến ái giai nhân.

Tác giả mượn điển tích "Mạch thượng tang" (ngàn dâu) ngoài cái ý tả cảnh còn có ý tả mối tình chung thủy giữa trinh phụ đối với chinh phu một cách tế nhị.

Khiêng cáng cưới vợ con quan

Hứa Tam Tỉnh,ông học rất giỏi, tuy không đỗ đạt đến trạng nguyên, nhưng nhân dân vẫn thường gọi ông là Trạng Ngọt.
Hứa Tam Tỉnh, người làng Vọng Nguyệt - tục gọi là làng Ngọt, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, làm quan đến Thượng thư, tước đến Đông giáo hầu, có sang sứ nhà Minh vào khoảng đời nhà Mạc (1527 - 1529).
Ông học rất giỏi, tuy không đỗ đạt đến trạng nguyên, nhưng nhân dân vẫn thường gọi ông là Trạng Ngọt (trạng nguyên làng Vọng Nguyệt). Khi còn bé nhà nghèo lắm. Một hôm ra đường gặp võng quan trấn thủ Kinh Bắc trẩy qua, sau võng quan lại là võng tiểu thư. Thoáng thấy tiểu thư nhan sắc diễm lệ, Trạng Ngọt mê lắm mới nằn nì phu cáng cho mình khiêng thay để được ngắm nghía cho thỏa thích. 
Về nhà Trạng Ngọt đòi mẹ phải đến hỏi tiểu thư ấy làm vợ. Bà mẹ sợ không dám đi, sau vì thương con nên cũng đành liều.
Tới dinh quan, bà bẩm hết sự tình và nói rõ nỗi gàn dở của con. Quan nghe xong, cười bảo: "Đã vậy, bà về gọi nó đến đây, ta xem học hành ra sao, nếu quả có tài, ra sẽ gả tiểu thư cho!"
Bà mẹ về bảo con đến hầu quan ngay. Quan thấy Hứa không có gì là xuất sắc, người thì đen mà lùn, duy chỉ có đôi mắt là khác thường. Tuy nhiên hỏi đến sách vở thì Trạng đối đáp rất trôi chảy, vì thế quan cho lưu lại ở trong dinh ăn học, hẹn hễ thi đỗ thì nhất định sẽ gả tiểu thư cho.
Năm sau, gặp khoa thi hương, Hứa đỗ thủ khoa. Quan liền y hẹn cho làm lễ thành thân.
Nhưng tới khi làm lễ hợp cẩn, thì tiểu thư vì đã biết Hứa là anh chàng khiêng cáng trước, lại thêm người đen đủi xấu xí nên chưa ưng lắm, sai con hầu cầm thiếp ra bảo rằng: "Cô tôi có một vế câu đối, nếu quan tân khoa đối được thì hãy xin làm lễ động phòng."
Câu ấy như sau:
"Ốc lậu nguyệt xuyên, hình như kê noãn, tam tam tứ tứ." 

Nghĩa là:

Nhà thủng bóng trăng dọi xuống, lốm đốm từng khoanh như trứng gà.

Hứa Tam Tỉnh nghĩ mãi không sao đối được, vừa bực mình vừa thẹn công dùi mài bấy lâu, liền bỏ ra bờ sông định tự tử cho khỏi nhục. Khi đến bờ sông, tình cờ trông thấy bóng trăng rãi trên mặt nước muôn ngàn lớp sóng bạc dập dềnh, bỗng nảy tứ thơ, quay ngay về phòng đối rằng: 

“Giang trường phong lộng, thế tự long lân, điệp điệp trùng trùng.”
Nghĩa là: 
           Sông dài gió lộng, trùng trùng điệp điệp như vẩy rồng.
Tiểu thư xem xong chịu là hay, cho mời Hứa vào làm lễ hợp cẩn.
Hôm sau tiểu thư lại đem câu đối ấy trình cha; quan trấn thủ bảo cứ khẩu khí này thì anh ta còn có thể đỗ trạng nguyên. Về sau Hứa đỗ trạng nguyên thật, chỉ vì xấu xí một tí mà phải đánh xuống hàng thứ hai (bảng nhãn) và chịu đứng sau Trạng Me, một người kém tài hơn Hứa.
 (ST)



Share this article :